Thứ Sáu, 24 tháng 2, 2017

Thời hạn bảo hộ quyền tác giả phần 2

Ví dụ: Theo cam kết tại Điều 4 Chướng II của Hiệp định BTA “trong trường hợp công ty đăng ký bản quyền nhãn hiệu uy tín thời hạn bảo hộ một tác phẩm không tính căn cứ theo đời người thì thòi hạn đó không được ít hơn 75 năm kể từ khi kết thúc năm lịch mà tác phẩm được công bố hợp pháp lần đầu tiên hoặc nếu tác phẩm không được công bố hợp pháp trong vòng 25 năm kẽ từ khi tác phẩm được tạo va công ty đăng ký sở hữu trí tuệ uy tín thì thời hạn đó không ít hơn 100 năm kể từ khi kết thúc năm lịch mà tác phẩm được tạo ra Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 quy định trường hợp này thời hạn bảo hộ chỉ là 50 năm kể từ khi tác phẩm được công bố lần đầu tiên hoặc được định hình. Đối chiếu với quy định về thời hạn bảo hộ quyền tác giả trong Hiệp định BTA, thời hạn bảo hộ quyền tác giả đối với các tác phẩm không tính theo nguyên tắc đời người trong Hiệp định dài hơn so với thời hạn bảo hộ quyền tác phẩm đó. Việt Nam đã kí kết Hiệp ước BTA nên theo nguyên tắc đối xử quốc gia, các quốc gia thành viên phải đương nhiên dành công ty đăng ký mã số mã vạch uy tín cho nhau những quyền như đối với công dân nước mình.

Mặt khác, hiện nay trên thế giới, nhiều quốc gia có xu thế nâng cao thời hạn bảo hộ đối với loại hình tác phẩm không tính theo nguyên tắc đời người để tạo ra sự cân bằng với loại hình tác phẩm tính theo nguyên tắc đời người do tuổi thọ trung bình ngày một nâng lên.
Vì vậy, để bảo đảm lợi ích quốc gia cũng như bảo đảm sự tương thích với pháp luật quốc tế, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều đăng ký bản quyền phần mềm nhanh nhất của Luật sở hữu trí tuệ năm 2009 đã sửa đổi điểm a khoản 2 Điều 27 Luật sở hữu trí tuệ như sau:
– Đối với tác phẩm điện ảnh, sân khấu, mĩ thuật ứng dụng, tác phẩm khuyết danh thì thời hạn bảo hộ là bảy mươi lăm năm kể từ ngày tác phẩm đó được công bố lần đầu tiên.
Đối với tác phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, mĩ thuật ứng dụng chưa được công bố trong thời hạn hai mươi lăm năm, kể từ khi tác phẩm được định hình thì thời hạn bảo hộ là một trăm năm, kể từ khi tác phẩm được định hình. Việc xác định thời hạn bảo hộ đối với tác phẩm điện ảnh, hồ sơ đăng ký bảo hộ thương hiệu nhiếp ảnh, mĩ thuật ứng dụng trong trường hợp này được hiểu là nếu tác phẩm đó đã được công bố trong vòng 25 năm kể từ khi tác phẩm được định hình trên một hình thái vật chất thì thời hạn bảo hộ là bảy mươi lăm năm; nếu càng công bố muộn thì thời hạn bảo hộ sẽ ít đi.
Ví dụ: Tác phẩm đã được định hình nhưng đến năm thứ 40 tác giả mới công bố thì thời hạn bảo hộ chỉ còn sáu mươi năm kể từ khi công bố.

Trong thời hạn năm mươi năm, kể từ khi tác phẩm điện ảnh, tác phẩm sân khấu được định hình, nếu tác phẩm chưa được công bố thì thời hạn chi phí đăng ký bản quyền logo bảo hộ được tính từ khi tác phẩm đó được định hình. Việc xác định thời hạn bảo hộ đối với tác phẩm điện ảnh, tác phẩm sân khấu trong trường hợp này được hiểu là nếu tác phẩm điện ảnh, tác phẩm sân khấu đã được định hình theo hình thái vật chất nhất định nhưng chưa được công bố thì thời điểm bắt đầu để xác định thời hạn bảo hộ (năm mươi năm) là thời điểm tác phẩm đó được định hình. Nếu hết năm mươi năm đó tác phẩm mới được công bố thì sẽ không được bảo hộ nữa.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét