Với những trải nghiệm ở Nhật Bản , tung thâm ( TNS ) trở thành những người có sự pha trộn văn hóa cũ và mới , công ty xuất khẩu lao động tại hà nội và khi phản hồi họ khác với lúc còn ở quê nhà cũng như lúc đang lao động tại Nhật. Chính đặc điểm “thể lai” này làm cho họ trở thành những nhóm có “vốn xã hội” riêng và có sự dị biệt trong chiến lược lùng mai sau. Tiếc là nguồn vốn này đang bị lãng phí.
Theo báo cáo chưa chính thức , từ năm 2000 đến nay , có khoảng 40.000 tung thâm là lao động phổ quát ( tốt nghiệp THPT ) và kỹ sư ( tốt nghiệp đại học ) đến Nhật Bản. Đáng kể , từ sau năm 2010 , với việc đổi thay chính sách mộ người lao động của Nhật Bản ( trước đó Nhật Bản chính yếu mộ người lao động từ Trung Quốc ) , công ty du học số lượng tung thâm Việt Nam đến Nhật đã tăng lên nhanh , làng nhàng mỗi năm có khoảng 4.000-5.000 người đến Nhật và khoảng 2.000 người phản hồi nước sau khi hết hợp đồng ba năm hoặc một năm.
Có khá nhiều câu hỏi trong tâm não họ khi trở về: phải sử dụng đồng tiền tích lũy được như thế nào? Sẽ làm công việc gì và ở đâu với chuyên môn học được? Nên nối tiếp lùng công việc ở ngoại bang hay tạo lập cuộc sống tại quê nhà? Sống ở nơi nào để có tương lai?
TNS đến Nhật Bản làm việc đa ngành nghề , du học nhật bản giá rẻ thuộc các khu vực Công lao , nông nghiệp , thương mại và lao vụ. Họ được các doanh nghiệp Nhật Bản mộ người theo nhu cầu và phê chuẩn sự tuyển chọn của các công ty tại Việt Nam , du học úc vừa học vừa làm đến Nhật làm việc tại nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nền kinh tế Nhật ( * ). Mỗi tung thâm đảm nhận một công việc trong một dây chuyển sản xuất hiện đại , khép kín và với các sản phẩm riêng.
Ở Nhật , các tung thâm được trải nghiệm nền sản xuất hiện đại và chuyên môn hóa cao. Họ có môi trường rất tốt để thực hiện tính kỷ luật ,du hoc my sự chăm chỉ và trách nhiệm trong công việc. Họ Bắt đầu khởi hành và phản hồi với tinh thần bạc nhược cầu tiến , ham muốn được làm việc hết mình. Họ là nguồn sức người trẻ đã qua cần lao , cốt yếu trong độ tuổi 25-30 , có cả nam lẫn nữ và có bản sắc văn hóa riêng. Thế nhưng , khi trở về nước , du học newzealand không có những doanh nghiệp “đón nhận” họ. Tu nghiệp sinh không dễ tiếp cận được nơi làm việc “tương tự” , mà thường gặp phải những khác biệt quá lớn về công nghệ làm ra , cách quản lý và phân việc cần lao , về ngày công và phúc lợi... Từ đó , những kỹ thuật chuyên trị và niềm mê say cần lao cũng phai lạt theo năm tháng.
Theo tiêu chuẩn tung tích , các doanh nghiệp đã ưu tiên tuyển dụng cần lao tại các xứ sở có hoàn cảnh kinh tế có nhiều trở ngại hoặc thiếu thốn , nơi có nhiều gia đình thuộc diện nghèo , chính sách ( do chiến tranh ). Theo đó , các xứ sở như Củ Chi ( TPHCM ) , Bến Tre , Tiền Giang , Tây Ninh , Quảng Nam , Quảng Ngãi , học bổng hàn quốc mảnh Hóa... là những nơi có nhiều tung tích ra đi và trở về. Đến nay , phần lớn tung tích đã trở lại các vùng nông thôn hoặc phân tán “như chim vỡ tổ” tại các thành thị lớn để tìm kiếm sinh kế mới. Nguồn sức người này không được tập trung và sự kết nối của chính họ để “giúp nhau” cũng dần mất đi. Những giá trị và chuyên trị học được của các tung tích từ nền làm ra công nghiệp , văn hóa và văn minh Nhật Bản , được mong mỏi là sẽ đóng góp cho quá trình công nghiệp hóa-hiện đại hóa ở Việt Nam đã bị phân tán. Thực tiễn , trong số hàng chục ngàn tung tích trở về , xuat khau lao dong sang nhat có nhiều người đã trở lại với cuộc sống “an nhàn” và “nội trợ” , có tình nhân tiếng Nhật , văn hóa Nhật thì tìm kiếm việc làm trong các nhà hàng Nhật ở các thành thị và cũng không ít tung tích lại ra đi tìm việc tại các quốc gia khác chưa hẹn ngày về.
có xác xuất nói , Chính phủ chưa có chiến lược dài hạn mang tầm quốc gia cho việc sử dụng hiệu quả “nguồn sức người trở về”. Từ đó , không ít tung tích ngay khi còn “tu nghiệp” ở Nhật Bản đã tích lũy đồng lương chỉ để mua đất cát và nhà , xuat khau lao dong di nhat nhằm đặt chỗ cho sự trở về. Đó là cách tích lũy vốn và cũng là một chiến lược an cư để tìm sự lạc nghiệp theo cách của họ. Chỉ mới gần đây , khi các doanh nghiệp nhỏ và vừa Nhật Bản tỏ ý sẽ mở nhiều hơn các chi nhánh làm ra tại Việt Nam , các TNS trở về mới có thêm những thời cơ và được tràn đầy hy vọng. Chưa có đường đi riêng kiên cố và cũng không có nhiều ngã rẽ cho những tung tích trở về tạo dựng sự nghiệp bằng một bề tiết hạnh môn học được của mình. Phần lớn tung tích chưa có hoàn cảnh để đóng góp từ “vốn xã hội” của mình vào nền kinh tế - xã hội Việt Nam. Trong câu chuyện này , chúng ta thấy tiếc nuối và lo âu , đặc biệt khi Việt Nam đang là quốc gia có năng suất cần lao thấp nhất trong khu vực.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét